(
Nghệ thuật sống)
- Cho đến tận bây giờ, sau gần 2.000 năm, những triết lý trong cách
hiểu lòng người khác của Gia Cát Lượng vẫn mang đầy tính thực tiễn giúp
cho không ít nhà lãnh đạo thành công trong việc hiểu người và dùng
người.
Thuật xem tướng không chỉ xem nhân diện mà còn coi trọng phí phách,
tài năng, đạo đức. Nhưng mọi thứ không thể tự nhiên mà có, thông thường
phải tu dưỡng, rèn luyện mà thành. Một anh hùng là phải có đủ “tài, đức,
trí, dũng, chính, tín”.
“Tri nhân, trị diện, bất tri tâm”, nếu gặp một người, bạn có thể xét
diện mạo bên ngoài, dựa vào thuật xem tướng biết được một phần tính
cách, cũng không thể nào biết được tâm, đức, tài năng, trí tuệ thật sự
của người đó.
Gia Cát Lượng tự là Khổng Minh (181–234), hiệu là Ngọa Long tiên sinh.
Vậy làm thế nào để biết được có thể “nhìn người” thật tốt? Hãy học cách nhìn người của Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng tự là Khổng Minh (181–234), hiệu là Ngọa Long tiên
sinh, là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một
chính trị gia, nhà quân sự, là học giả và cũng là một nhà phát minh kỹ
thuật. Không chỉ có nhiều kiến thức uyên thâm, Gia Cát Lượng còn là một
người rất giỏi “nhìn người” và “dùng người”.
Khi còn ở núi Ngọa Long, ông đã viết ra bộ sách “Tướng Uyên” trong đó
có đưa ra nhận xét về tính cách con người như sau: “Tính người thật khó
hiểu. Dung mạo bất nhất, hành động trăm ngàn lối. Kẻ trông hiền lành
nhu thuận mà vô đạo, kẻ bề ngoài cung kính mà trong lòng trí trá vô lễ.
Kẻ trông rất hùng dũng nhưng lại nhát sợ. Kẻ có vẻ thật tận lực mà rất
bất trung”.
Vì vậy, để giúp các bậc “chính nhân quân tử” hiểu thấu được lòng
người, Gia Cát Lượng đã viết riêng một chương có tên là “Tri nhân” (hiểu
người) cho bộ sách Tướng Uyên của mình trong đó ông đưa ra 7 cách để
hiểu được lòng người khác như sau:
1. Đem điều phải lẽ trái hỏi họ để biết " chí hướng ".
2. Lấy lý luận dồn họ vào thế bí để biết " biến thái ".
3. Lấy mưu trí trị họ để trông thấy " kiến thức "
4. Nói cho họ những nỗi khó khăn để xét " đức dũng ".
5. Cho họ uống rượu say để dò " tâm tính ".
6. Đưa họ vào lợi lộc để biết tấm lòng " liêm chính ".
7. Hẹn công việc với họ để đo " chữ tín ".
Nhờ những phép thử rất hữu hiệu này mà Gia Cát Lượng đã giúp cho Thục
vương Lưu Bị chọn lựa ra những người có đủ cả tài, đức, trí, dũng,
chính, tín; xây dựng nên triều đại nhà Thục hùng mạnh, sánh ngang với
hai cường quốc bên cạnh là Ngụy và Ngô.
Giờ đây, sau gần 2.000 năm, những triết lý này vẫn mang đầy tính thực
tiễn; áp dụng cách 7 cách trên của Gia Cát Lượng vào cuộc sống ngày nay
sẽ giúp bạn vừa xem nhân diện, vừa biết cách thử tâm, đức, trí tuệ, tài
năng của một người; để tìm được một người đồng hành, một đối tác làm ăn
tốt trong cuộc sống, trở thành nhà lãnh đạo thành công.
Giải mã 7 cách chọn người của Gia Cát Lượng
Thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng phò tá Lưu Bị. Ông là nhà chính trị, nhà
chiến lược, nhà quân sự thiên tài. Sự kiệt xuất của ông khiến kẻ thù
cũng phải kính nể. Những mưu lược của ông như “Khẩu chiến thuyết quần
nho”, “Mượn gió Đông”, “Hỏa công Xích Bích”, “Ba lần chọc tức Chu Du”,
“Mưu trí bày trận Hoa Dung”… khiến hậu thế phải nghiêng mình thán phục.
Trong số những tư tưởng vượt trội của Khổng Minh, 7 tiêu chuẩn chọn hiền
tài của ông vẫn còn nguyên giá trị.
Gia Cát Lượng
Vừa qua, các nhà nghiên cứu lịch sử, xã hội học Trung Quốc đã tổ chức
một số cuộc hội thảo phân tích về 7 cách chọn hiền tài của Gia Cát
Lượng. Cụ thể, vị quân sư kiệt xuất này đã dựa trên 7 tiêu chí lớn:
“Chí, Biến, Thức, Dũng, Tính, Liêm, Tín”.
1. “Vấn chi dĩ thị phi nhi quan kỳ Chí”.
Nghĩa là hỏi họ về điều phải lẽ trái để xem xét chí hướng của họ.
Muốn trọng dụng một người, trước tiên phải biết được ý chí, lập trường
của người ấy ra sao. Nếu như đối phương lẫn lộn giữa điều phải lẽ trái
hoặc mơ hồ giữa cái đúng cái sai, lập lờ trắng đen thì quyết không thể
giao phó trọng trách. Bởi lẽ con người này không vững vàng, không kiên
định về lập trường, dễ đổi trắng thay đen và dễ phản trắc.
Chí
hướng là động lực thúc đẩy con người tiến lên. Người không có chí hướng
thì không thể làm nên việc lớn. Người không có chí hướng chẳng khác gì
người đi đêm không có trăng sao, người đi biển không có ngọn hải đăng.
Bởi vậy, biết rõ được chí hướng của con người thì sẽ đánh giá được ý chí
của họ. Không chỉ Trung Quốc, tại nhiều nước trên thế giới, phần lớn
những nhà chính trị, nhà chiến lược, nhà quân sự nổi tiếng đều có chí
hướng ngay từ khi tuổi còn nhỏ.
2. “Cùng chi dĩ từ biện nhi quan kỳ Biến”.
Nghĩa là đưa ra nhiều câu hỏi, lý lẽ dồn họ vào thế đường cùng để xem
khả năng ứng biến đối phó với các tình huống của họ. “Biến” ở đây là
chỉ khả năng ứng phó, năng động. Khi chọn người, Gia Cát Lượng thường
dồn dập đưa ra những lý lẽ, những tình huống để dồn họ vào thế đường
cùng, thế bí nhằm xem xét khả năng đối phó, ứng biến của đối phương.
Người
có khả năng ứng biến giỏi, nhất là các tướng cầm quân khi bị dồn vào
thế đường cùng, họ ắt sẽ biết cách ứng phó, biết chuyển bại thành thắng,
biết mở cho mình con đường sống. Người xưa có câu: “Sơn trùng thủy phục
nghi vô lộ. Liễu âm hoa minh hựu nhất thôn”. Nghĩa là trong thế đường
cùng bốn bề sông núi tưởng không lối thoát, nhưng người biết ứng biến,
năng động vẫn có thể mở ra lối thoát tới nơi rực rỡ đầy hoa.
3 – “Tư chi dĩ kế mưu nhi quan kỳ Thức”.
Nghĩa là dùng mưu kế của mình để tham khảo những mưu kế, sách lược
của đối phương, thông qua đó có thể đánh giá những kiến thức của đối
phương.
4 – “Cáo chi dĩ nan nhi quan kỳ Dũng”.
Nghĩa là đặt ra những tình huống gian nguy, khó khăn để đánh giá sự
dũng cảm của đối phương, nhất là đối với những tướng cầm quân ngoài mặt
trận. Thời cổ đại, hai tiêu chuẩn rất quan trọng đối với tướng lĩnh là
“Trung, Dũng”, tức là trung thành và dũng cảm. Người Trung Quốc xưa có
câu “Hiệp lộ tương phùng dũng giả thắng”, nghĩa là hai đối thủ gặp nhau
trên con đường độc đạo, người dũng cảm sẽ chiến thắng.
Khi
lựa chọn hiền tài, Gia Cát Lượng thường đưa ra những nghịch cảnh, khó
khăn gian nguy để thử thách sự dũng cảm của họ, bởi lúc lâm nguy tinh
thần dũng cảm vô cùng quan trọng. Khắc phục một khó khăn có thể dễ dàng
nhưng khắc phục 10 hay 100 khó khăn, gian nguy liên tiếp đòi hỏi con
người phải có tinh thần dũng cảm vô song. Một nhà triết học người Đức
từng nói: “Chỉ có con người nào đã từng trải qua sự giày vò của địa ngục
thì mới có sức mạnh để xây dựng được thiên đường”.
5 – “Túy chi dĩ tửu nhi quan kỳ Tính”.
Gia Cát Lượng cho đối phương uống rượu say để đánh giá tính tình,
thực tâm của họ. Rượu là chất kích thích, khi bị say thì vỏ đại não bị
tê dại, con người khi ấy bị mất lý tính, không còn ý thức được những
hành vi của mình. Nên lời nói của họ không chút giấu giếm mà rất thực
lòng. Từ đó Gia Cát Lượng đánh giá đúng thực chất tâm tính của đối
phương.
6 – “Lâm chi dĩ lợi nhi quan kỳ Liêm”.
Nghĩa là dành cho họ nhiều tiền tài, bổng lộc, thậm chí hứa giao cho
trọng trách để đánh giá sự liêm khiết hay lòng tham lam của họ. Bản tính
của con người thường có máu tham, hám lợi, tham tiền, nhất là những
người làm quan và giữ trọng trách lớn. Gia Cát Lượng cho rằng, một người
liêm khiết thường có những đặc điểm như: Trung thành vô hạn, Làm việc
liêm khiết vô tư, Thấu hiểu nỗi khổ của dân chúng, Chú trọng tiết kiệm,
Không hám giàu sang, không mê tửu sắc, Tự khép mình vào kỉ luật.
Khi
làm Thừa tướng nước Thục, Gia Cát Lượng đưa ra nhiều đạo luật nghiêm
khắc, nhưng không ai phàn nàn oán giận ông nửa lời. Bởi bản thân ông rất
gương mẫu, liêm khiết. Nước Thục khi đó có nhiều quan thanh liêm và
tướng tài, như Vận Tưởng Uyển, Đổng Hòa, Lưu Ba, Đổng Doãn, Dương Hồng.
Thực tế cũng cho thấy, cổ kim đông tây, người nào vượt lên sự cám dỗ của
tiền tài danh vọng thường là những quan thanh liêm, được lòng dân và
góp phần làm cho đất nước hưng thịnh.
7 – “Kỳ chi dĩ sự nhi quan kỳ Tín”.
Tức là giao việc cho họ để xem lời họ hứa so với thực tế làm việc ra
sao, từ đó đánh giá chữ “Tín” của họ. Gia Cát Lượng cho rằng: “Ngôn nhi
vô tín, bất tri kỳ khả dã”, tức là một người chỉ biết nói suông không đi
đôi với việc làm, là người không có chữ tín.
Bởi
vậy, có câu: “Thính kỳ ngôn, Quan kỳ hành”, tức nghe họ nói không đủ mà
phải xem họ làm như thế nào. “Quốc vô tín bất hưng, nhân vô tín bất
lập”, một đất nước mà không có chữ tín với các nước thì không thể hưng
thịnh, một người không có chữ tín với mọi người thì không thể lập
nghiệp.
:(( :(( :((
ReplyDelete